ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO 124 Đường Nguyễn-Trãi Nha-Trang.

ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO 124 Đường Nguyễn-Trãi Nha-Trang.
ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG-ĐẠO ĐẠI-VƯƠNG - Số 124 Đường Nguyễn-Trãi, Thành Phố Nha-Trang.

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng 2/2 end (Đọc Truyện Đêm Khuya)


Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng 1/2 (Đọc Truyện Đêm Khuya)


Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

LỄ HỘI KỶ NIỆM NGÀY GIỖ ĐỨC VƯƠNG-PHI NGUYÊN-TỪ QUỐC-MẪU LẦN THỨ 725

LỄ HỘI KỶ NIỆM LẦN THỨ 725 NĂM NGÀY GIỖ ĐỨC VƯƠNG-PHI NGUYÊN-TỪ QUỐC-MẪU 28/9/MẬU TÝ (1288-2013).
Ban quản lý Bản Đền đã tổ chức lễ hội kỷ niệm lần thứ 725 năm ngày giỗ của Đức Trần-Triều Vương-Phi Nguyên-Từ Quốc-Mẫu vào ngày 28/9/Quý Tỵ (01/11/2013) tại bản đền số 124 đường Nguyễn Trãi, phường Phước Tân, Thành phố Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa.
Về tham dự lễ hội có đại diện chính quyền địa phương, phòng văn hóa thông tin thành phố, quý vị hội viên, tín hữu đã dâng hương tưởng niệm công đức của tiền nhân và tế lễ cổ truyền.

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Trên sông truyền hịch - FULL (Đọc Truyện Đêm Khuya)

Khám phá Lục Đầu Giang

Huyền Trân - FULL (Đọc Truyện Đêm Khuya) (+danh sách phát)

Lá Cờ Thêu Sáu Chữ Vàng - FULL (Đọc Truyện Đêm Khuya) (+danh sách phát)

Thời cuối nhà Trần (Đọc Truyện Đêm Khuya) (+danh sách phát)

Thời đầu nhà Trần - FULL (Đọc Truyện Đêm Khuya) (+danh sách phát)

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO - QUẺ SỐ 16

                   LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

              QUẺ  SỐ   16  -  THƯỢNG THƯỢNG

TRIỆU :                       Thừa dư tế nhân

Dịch :                            Cưỡi xe giúp người.

TỔNG THI :                Phúc điền hảo bả thực linh cai,
                                      Tộc đại an tri tử bất tài,
                                      Vị vấn Cao-dương bát long thị,
                                      Nhãn tiền thu đắc kỷ phần lai.

Dịch :                            Cây đức ươm trồng đã bấy nay,
                                      Họ to mừng thấy cháu con hay,
                                      Bát long kìa đất Cao-dương nọ,
                                      Danh vọng cao sang mấy kẻ tầy ?


CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH          : Ôn ôn như ngọc.
          Ý nói : Tự than khang cường; gia đạo yên vui, mọi việc trong nhà đều ôn nhuần như ngọc.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Dục tả giả tả. (Muốn sang bên tả thì sang bên tả). Ý nói : Cầu quan, cầu tài, cầu gì được nấy, không bị trắc trở chi cả.

3. HÔN NHÂN                               : Nghi thất nghi gia. (trai có vợ gái có chồng). Ý nói : Việc hôn nhân rất tốt, đôi bên vui vẻ xứng ý.

4. LỤC GIÁP                                 : Thiên kim chi tử.
          Ý nói : Sinh trai quý tử.

5. PHONG THỦY                         : Hữu hảo điền địa. (Có ruộng đất tốt)
          Ý nói : Nhà có phúc đức nên phần mộ được để vào đất tốt, con cháu hưng thịnh.

6. QUAN TỤNG                            : Quan thanh dân an. (Quan trong sạch, dân yên ổn). Ý nói : Không có chuyện xảy ra kiện tụng.

7. TẬT BỆNH                                : Khởi dư giả thương.
          Ý nói : Bệnh soàng không đáng lo ngại, (có người học trò hoặc con bạn trông nom săn sóc thuốc thang).

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Tri tử lai chi.
          Ý nói : Người đi xa sẽ về, vật mất lại thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Sinh tài hữu đạo.
          Ý nói : Nhờ có sự làm ra nhiều, tiêu xài ít nên việc sinh tài rất khả quan.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

          Quẻ này ứng triệu “Cưỡi xe giúp người” đi đôi với thơ tổng thi : “Cây đức ươm trồng đã bấy nay.Họ lo con cái hẳn càng hay”. Vậy ai xin được quẻ này, muốn hưởng phúc lâu dài, cần vun trồng cây đức, để ý thương người giúp đời, như thế là hợp lời Thánh dạy sẽ được phúc lộc song tuyền.
          Về thời vận, quẻ này đầy năm đều tốt, hễ giúp người nhiều bao nhiêu thì phúc lộc càng nhiều bấy nhiêu./-









Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

LỄ HỘI KỶ NIỆM LẦN THỨ 713 NĂM NGÀY THÁNH HÓA (NGÀY GIỖ) ĐỨC HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG 20/8 ÂM LỊCH (1300-2013)

Ban quản lý Đền Thờ Đức Thánh Trần-Hưng-Đạo Thành-phố Nha-Trang đã tổ chức lễ hội kỷ niệm lần thứ 713 năm ngày Thánh Hóa (ngày Giỗ) của Đức Hưng-Đạo Đại-Vương 20/8/Canh Tý (1300) - 20/8/Quý Tỵ (2013) :
- Chiều ngày 23/9/2013 (19/8/Quý Tỵ) : Ban quản lý, Nam quan tế, Nữ quan tế, Hội viên tín hữu, các Thầy Cô giáo và các cháu học sinh Trường trung học cơ sở Trần-Hưng-Đạo đã dâng hương tại Tượng Đài Đức Thánh và Đền Thờ Đức Thánh Trần trong Công viên Bạch Đằng, đường Trần Phú Nha-Trang.
Tại Đền Thờ Đức Thánh Trần-Hưng-Đạo số 124 đường Nguyễn Trãi, Nha-Trang, Ban nam quan tế cổ truyền đã tế lễ cáo yết.   
- Ngày 24/9/2013 (20/8/Quý Tỵ) : Tế lễ cổ truyền tại Đền Thờ Đức Thánh Trần trong Công viên Bạch Đằng, đường Trần Phú Nha-Trang. 
Tại Đền Thờ Đức Thánh Trần-Hưng-Đạo số 124 đường Nguyễn Trãi Nha-Trang, Ban quản lý tụng kinh Đức Thánh Trần cầu quốc thái dân an, Nam quan tế lễ cổ truyền, Nữ quan tế lễ cổ truyền. 
Về dự lễ hội có đại diện các cấp chính quyền Thành phố Nha Trang, Phường Phước Tân, Học Viện Hải Quân Nha-Trang, Ban quản lý các Đền, Đình, Hội viên tín hữu, đã tiến hành lễ dâng hương tưởng niệm 713 năm ngày mất của Đức Hưng-Đạo Đại-Vương Trần-Quốc-Tuấn để bày tỏ lòng tôn kính, tri ân đối với Vị Anh-hùng của dân tộc. Tại buổi lễ, ban tổ chức đã ôn lại lịch sử vẻ vang và ý nghĩa của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm xưa dưới sự chỉ huy tài tình của Đức Trần-Hưng-Đạo đánh bại âm mưu xâm lược của giặc Nguyên Mông, mang lại thái bình thịnh trị cho đất nước.
Đây là một trong những lễ hội được tổ chức hàng năm nhằm ghi nhớ công ơn của Đức Hưng-Đạo Đại-Vương và góp phần giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ con cháu./-







Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 15


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                                 QUẺ SỐ  15  -  HẠ HẠ

TRIỆU :                       Tế vũ phi hoa.

Dịch :                            Mưa nhẹ mà vẫn làm rụng hoa.

TỔNG THI :                Yến tước vô thanh điếu mộ xuân,
                                      Linh nhân trường đoạn khấp hồng trần,
                                      Vấn cừ giải đắc thanh tiêu mộng ?
                                      Hoàng-lạc lâu tiền đôi bạch vân !

Dịch :                            Âm thầm chiếc én khóc xuân tàn,
                                      Sui khách hồng trần đứt ruột gan,
                                      Thử hỏi mộng đời ai giải được ?
                                      Kìa lầu Hoàng-lạc áng mây tan !

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Ưu tâm tiêu tiêu. (Lòng lo ngay ngáy). Ý nói : Thân thế và gia đình có sự lo nghĩ, không yên vui.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Uấn vu quần tiểu. (Giận vì lũ tiểu nhân). Ý nói : Việc cầu quan cầu tài bị tiểu nhân gièm pha bực mình, không thể tiến được.

3. HÔN NHÂN                               : Diệc bất nữ tòng.
          Ý nói : Việc hôn nhân không xong, vì gia đình cô gái phản đối.

4. LỤC GIÁP                                 : Chu dĩ Bao Tự.
          Ý nói : Con cái hiếm hoi, cần sửa lại hành dộng phản đạo đức của người vợ, họa may mới có sự sinh đẻ.


5. PHONG THỦY                         : Tàng đầu lộ vĩ. (Kín đầu hở chân).
          Ý nói : Đất ở mộ bị lở, lộ cả áo quan (hòm).

6. QUAN TỤNG                            : Cữu nhị bất khắc.
          Ý nói : Việc kiện khó thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Nhân nhi vô ưu.
          Ý nói : Nên bớt lo nghĩ, cho tinh thần thư sảng.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Chiêu Quân xuất tái. (Nàng Chiêu Quân ra khỏi cửa quan). Ý nói : Người đi xa không về, của mất không tìm thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Thất như huyền khánh. (Nhà như khánh treo). Ý nói : Kho bỏ rỗng tuếch, chuồng heo chuồng bò trống trơn, công việc thảy đều thất bại.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :
          Quẻ này ứng triệu “mưa nhẹ rụng hoa” có nghĩa là các việc sui đem đến từ từ, tuy chẳng kịch liệt cho lắm mà rốt cuộc gia đạo ngày một suy dần. Ai rút được quẻ này phải nên lưu ý tu tỉnh tâm tính, cùng sửa lại hành động để cứu vãn dần dần họa may mới thoát khỏi vận hạn hiểm nghèo. Đồng thời cũng phải cố nén lòng chịu đựng đừng oán trời, trách người chi cả. Khi nào vận bĩ qua, vận thái khắc trở lại khác nào như cơn mưa (làm rụng hoa) đã tạnh, thì bầu trời phải trở lại quang quẻ, lúc đó tha hồ mà hóng gió mát, ngắm trăng trong.
Thời vận về ba tháng xuân (Giêng, 2, 3) không tốt vì ứng chữ “tế vũ phi hoa” nhất là tháng 3, nên đề phòng hơn, vì có chữ “điếu mộ xuân”. Sang mùa thu thời vận khá hơn./-

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 14


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                     QUẺ SỐ  14  -  TRUNG BÌNH

TRIỆU :                       Lạo tận đàm thanh.

Dịch :                            Lọc hết, nước đầm lại trong.

TỔNG THI :                Loan hoàng giao dã cửu trình tường,
                                      Vạn quốc hy du hóa nhật trường,
                                      Mạc đạo tích niên xuân vị ổn,
                                      Thái canh sơ phạn tống hành trang.

Dịch :                            Rõ ràng loan phượng báo điềm hay,
                                      Muôn nước ưu du thỏa tháng ngày,
                                      Chớ nhắc năm xưa thời lận đận,
                                      Ra đời : áo vải với canh đay.

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Khổ tận cam lai. (Đắng hết nước ngọt), Ý nói : Thân thế và gia đình qua cơn cay đắng đến lúc thời vận dễ chịu trở lại.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Lao khiêm quân tử. (Người quân tử vất vả khiêm nhường). Ý nói : Việc cầu quan cầu tài cũng có kết quả, nhưng phải giữ đức lao cần và khiêm nhường luôn luôn.

3. HÔN NHÂN                               : Nhan như thuấn hoa.
          Ý nói : Lấy được người đẹp. (gái có sắc, trai có tài).

4. LỤC GIÁP                                 : Khô mộc sinh chi. (Cây khô mọc cành). Ý nói : Tuy muộn nhưng thế nào cũng sinh con tốt.


5. PHONG THỦY                         : Vô binh bất bi.
          Ý nói : Mộ phần yên ổn.

6. QUAN TỤNG                            : Như ngư hữu thủy. (Như cá gặp nước). Ý nói : Nhờ vào lý phải, lại được quan minh xét, nên việc kiện sẽ thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Thái tân chi ưu.
          Ý nói : Có ốm đau soàng nhưng không đáng lo ngại.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Vô vãng bất phục. (Chẳng có gì đi mà không trở lại). Ý nói : Người đi xa sẽ về, của mất lại thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Đắc xích thủ xích.
          Ý nói : Việc chăn nuôi, việc trồng cấy có làm có ăn, không suy xuyển chút nào.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

          Quẻ này ứng triệu “Lọc hết, nước đầm trở về trong trẻo như xưa” có nghĩa là qua cơn bĩ cực đến tuần thái lai, qua bước gập gềnh đến đoạn bằng phẳng, đúng như câu tổng thi “Muôn nước ưu du thỏa tháng ngày”.

          Tuy nhiên, đường lối sống trong lúc này là phải êm ả dịu dàng, đừng nòng nảy cáu kỉnh, vì trong triệu có câu “hết đục đến trong” nghĩa là nhờ có sự yên tĩnh làm cho bùn nhơ lắng xuống, nước đầm trở nên trong. Nay nếu nóng nảy, khác nào lấy que mà khuấy lên thì nước còn trong thế nào được./-







LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 13


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                                  QUẺ SỐ  13  -  ĐẠI CÁT

TRIỆU :                       Tích cốc phòng cơ.

Dịch :                            Trữ thóc phòng đói.

TỔNG THI :                Nhất thể nhân long khởi dị thường,
                                      Mão kim thiên tử khởi Mang-Dương,
                                      Hà ưu tam quốc phân tranh đỉnh,
                                      Ca vũ môn đình chỉ nhật vương.

Dịch :                            Rồng giữa nhân gian há khác thường,
                                      Lưu Bang đột khởi tự Mang-Dương,
                                      Lo gì tam quốc phân tranh đỉnh,
                                      Ca vũ nơi này hẹn nghiệp vương.

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Lai chương hữu khách.
          Ý nói : Thân thế gia đình được hưởng phúc lành, có nhiều điềm tốt đem lại.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Gia huyền hộ sắt. (Nhà nhà đàn hát). Ý nói : Cầu quan đắc quan, cầu tài đắc tài, đến đâu cũng được mọi người vui vẻ giúp đỡ.

3. HÔN NHÂN                               : Như cổ sắt cầm. (Như gẩy đàn sắt đàn cầm). Ý nói : Việc hôn nhân vui vẻ như hòa tiếng đàn cầm đàn sắt.

4. LỤC GIÁP                                 : Duy hùng duy bi.
          Ý nói : Sinh con trai.


5. PHONG THỦY                         : Nhân khí ngã thủ. (Người bỏ ta lấy).
          Ý nói : Ngôi đất tốt nhờ có âm-công dày nên trời để dành cho.

6. QUAN TỤNG                            : Thuận đức giả xương. (Ở điều nhân đức thì hưng thịnh). Ý nói : Vì ở phải lẽ nên việc quan tụng sẽ thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Xưng bỉ tỷ quanh.
          Ý nói : Bệnh nên cữ rượu sẽ khỏi.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Mạnh kiến Huệ Vương. (Thầy Mạnh yết kiến vua Huệ). Ý nói : Người đi xa được gặp, của mất lại tìm thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Văn vương vô ưu.
          Ý nói : Việc chăn nuôi, việc trồng cấy đều tiến triển đều đều, không có gì lo ngại.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :
          Quẻ này ứng triệu “Trữ thóc phòng đói” là điều nên dự trữ lo xa. Ai rút được quẻ này mọi việc đều vững vàng chắc chắn, khác nào như vua Hán Cao Tổ thưở hàn vi còn ẩn mình ở núi Mang-Dương mà cái khí thế đã lộ ra sau này làm nên sự nghiệp vương trong thiên hạ. Tuy nhiên, dù có báo trước sự thành công, nhưng quẻ ứng triệu “Trữ thóc phòng đói” nên khi thành công rồi vẫn phải giữ mực cần kiệm, siêng năng mới tốt.
          Thời vận : Tháng 2, 7, 8 , 9 ứng chữ Mão Kim trong tổng thơ rất tốt, có việc sinh cơ lập nghiệp và nên danh phận./-







LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 12


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                 QUẺ SỐ  12   -  HẠ HẠ

TRIỆU :                       Họa xà thiêm túc.

Dịch :                            Vẽ rắn thêm chân.

TỔNG THI :                Ngư trảo hồ minh vị túc luân,
                                      Toàn bằng tạo hóa định ngô chân,
                                      Thỉnh khan tiêu sắt thu dung đạm,
                                      Thùy thị đăng cao kế hứng tần.

Dịch :                            Cá quẫy hồ kêu chẳng kể mà,
                                      Toàn nhờ tạo hóa định cho ta,
                                      Kìa xem heo hắt màn thu nhạt,
                                      Ai kẻ lên cao hứng đậm đà ?

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Lệ khí chí quai.
          Ý nói : Tự thân gia trạch có lắm chuyện rắc rối xay ra không yên.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI              : Huyễn ngọc cầu thụ. (mang ngọc bán rao). Ý nói : Có tài nhưng đời không đếm xỉa đến, giống như ngọc phải bán rao.

3. HÔN NHÂN                               : Phúc thủy nan thu. (Nước đổ khó vét lại cho đầy). Ý nói : Hôn nhân có sự xích mích rồi đi đến tan vỡ.

4. LỤC GIÁP                                 : Nữ dã dương nam. (Gái cũng bằng trai). Ý nói : Lục giáp sinh con gái.


5. PHONG THỦY                         : Chu vô định đà.
          Ý nói : Mộ để sang hướng chẳng phát kết gì; lại có mộ lâu ngày lạc nấm, mộ đắp một nơi, hài cốt chôn một nẻo.

6. QUAN TỤNG                            : Dĩ tốc ngã ngục.
          Ý nói : Việc quan tụng không khéo bị giữ.

7. TẬT BỆNH                                : Úy thiên chi uy . (Rất sợ uy trời).
          Ý nói : Căn cứ vào sự có hay không có đức mà định việc sống chết.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Bất kiến kỳ chi.
          Ý nói : Người đi xa vẫn còn đi, của mất đương chuyển từ người này đến người khác.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Mỗi thực vô dư.
          Ý nói : Việc chăn nuôi và cày cấy, hễ không lỗ vốn là may lắm rồi.


TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

Quẻ này ứng triệu “Vẽ rắn thêm chân” nên việc gì cũng bị rắc rối sinh ra lắm chuyện mà kết cục toàn là hão cả. Vậy ai rút được quẻ này, mọi việc đều theo định mệnh là hơn, đừng bới vẽ ra làm gì chỉ nhọc công tốn sức mà thôi.
Thời vận : Tháng 4 là tháng Tỵ . Tỵ là rắn, vậy nên lưu ý đề phòng e có sự buồn xảy ra ứng câu “Tiêu sắt thu dung đạm” ; các tháng 7, 8, 9 cũng thế./-




LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 11


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                             QUẺ SỐ  11  -  THƯỢNG QUÁI

TRIỆU :              Tháo đao chế cẩm.

Dịch :                   Cầm kéo cắt gấm.

TỔNG THI :      Bách trĩ thành cao cấp độ châm,
                             Cao san lưu thủy hữu tri âm,
                             Phùng thời an đụng luân cân pháp,
                             Khuê hạng quân thần lợi đoạn câm.

Dịch :                   Trăm trĩ thành cao cách mấy tầm,
                             Tình cờ duyên gặp khách tri âm,
                             Gặp thời lọ mượn mưu Gia-Cát,
                             Tôi, Chúa thành công tại nhất tâm.

CHÚ GIẢI :
1.TỰ THÂN GIA TRẠCH  : Hồng tập trung thạch.
          Ý nói : Thân thế và gia đình đều yên vui.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Cơ nguyệt nhi khả.
          Ý nói : Cầu quan cầu tài rất tốt và rất mau lẹ.

3. HÔN NHÂN                               : Xuất ngôn hữu chương.
          Ý nói : Việc hôn nhân nói ra là đẹp tai hợp ý được mọi người thương.

4. LỤC GIÁP                                 : Tái lộng chi chương.
          Ý nói : Điềm sinh con trai.

5. PHONG THỦY                         : Vô cữu vô dự.
          Ý nói : Mộ được bình yên.

6. QUAN TỤNG                            : Lợi hữu du vãng.
          Ý nói : Kiện tụng có cơ thắng.

7. TẬT BỆNH                                : Đại nhân báo biến.
          Ý nói : Bệnh mỗi ngày một nhẹ đi.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Tái kiến vu Chu.
          Ý nói : Người đi tất về, vật mất tất thấy.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Tam niên hữu thành.
          Ý nói : Việc chăn nuôi và làm ruộng cũng có kết quả tốt, nhưng phải đợi lâu mới thành công.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :

          Quẻ này ứng triệu “Cầm kéo cắt gấm” là triệu rất tốt. Tuy nhiên chính tay mình phải may cắt thì áo mới thành; như thế là mình đã tạo lấy đồ trang sức cho mình. Vậy ai rút được quẻ này, về mưu vọng nên nửa trông vào mình, nửa trông vào bạn tri âm (quý nhân), hai đằng hợp một mới mong hoàn toàn, cho nên trong thơ tổng đoán có câu “Tôi Chúa thành công tại nhất tâm”.
         
Đây là quẻ phải nên luôn luôn đồng tâm hợp lực thì kết quả mới tốt./-










Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

HÒN ĐÁ LẠ TẠI ĐỀN HÙNG.


http://www.youtube.com/watch?v=aTl626R-54s

CÂU CHUYỆN VỀ HÒN ĐÁ LẠ TẠI ĐỀN HÙNG

http://www.youtube.com/watch?v=6H3LxLlMC_g

CÂU CHUYỆN VỀ HÒN ĐÁ LẠ TẠI ĐỀN HÙNG.


HÒN ĐÁ LẠ TẠI ĐỀN HÙNG


Vụ "hòn đá lạ" ở Đền Hùng : quản lý bừa bãi di tích lịch sử

By Thanh Phương
Đăng ngày 2013-04-22 04:00
Mon, 2013-04-22 02:00
1
"Hòn đá lạ" ở Đền Hùng Phú Thọ (TỄU - BLOG)
Ngày 19/04, tức ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, nghi thức dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng đã diễn ra tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng Phú Thọ. Trước đó vào tối 13/04, tức mồng 4 tháng 3 Âm lịch, UBND tỉnh Phú Thọ đã chính thức đón Bằng công nhận "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ" là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nhưng thay vì bảo tồn tín ngưỡng thờ cúng vô cùng thiêng liêng này đối với người dân Việt Nam, thì các nhà quản lý Đền Hùng lại đưa vào di tích này những thứ hoàn toàn không có một cơ sở lịch sử nào, như "vụ hòn đá lạ" đang gây nhiều tranh cãi trong những ngày qua, mà theo lời tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện khi trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, đó là mà một sự « hỗn loạn về tâm linh », toàn là những sự bịa đặt.
Bên cạnh sự quản lý lỏng lẻo các di tích như Đền Hùng, cách hành xử của một bộ phận người dân Việt Nam đối với những nơi thờ tự thiêng liêng như vậy cũng đã gây bất bình dư luận. Báo chí trong nước mấy ngày qua đã đưa lên nhiều hình ảnh hàng quán, dịch vụ loạn xạ đón khách vào Đền Hùng, bày bán đủ thứ, thượng vàng hạ cám, từ hàng giải khát, cơm cháo, bún phở, bánh kẹo, quần áo, giầy dép, hàng gia dụng, cho đến cây cảnh, măng chua, điếu cày..., thậm chí dọc hai bên đường còn bày bán cả thịt gia súc.
Về "dịch vụ", thì kinh tởm nhất là các khu nhà vệ sinh do người dân dựng lên hai bên đường để tranh thủ kiếm thêm trong những ngày lễ. Những khu nhà này được che chắn tạm bợ, quây bằng bạt, nilông, không có khu xả thải… trông rất mất vệ sinh và phản cảm.
Nhiều người dân còn đua nhau rải tiền ở Đền Hùng, thậm chí ném tiền vào tượng một cách vô ý thức. Theo báo chí trong nước thì việc rải tiền lẻ tại những nơi thờ cúng tín ngưỡng đang trở nên phổ biến một cách đáng báo động về ý thức văn hóa của một bộ phận người dân Việt Nam.
« Thượng bất chính, hạ tắc loạn », khi chính quyền làm không đúng thì người dân cũng làm bậy theo là lẽ đương đương nhiên. Nói như tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, những người quản lý những khu di tích đó phải là những người hiểu biết về lịch sử và văn hóa, mà còn là những người có « một tấm lòng rất thành kính » và một cái « tâm rất thuần khiết » để bảo đảm cho những lễ hội, những cuộc cúng tế diễn ra đúng quy củ, truyền thống, cũng như để có thể cưỡng lại được những cám dỗ vật chất làm dung tục hóa những nghi lễ này. Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện.
RFI : Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện. Trước hết xin ông nhắc lại sơ qua về vụ « hòn đá lạ » ở Đền Hùng ?
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện : Trong những ngày qua, báo chí và dư luận, nhất là cư dân mạng đã bàn luận rất sôi sôi nổi về tảng đá « đạo bùa », đã được đặt tại Đền Thượng, tức là di tích kiến trúc quan trọng nhất ở khu vực di tích Đền Hùng, nơi thờ quốc tổ của người Việt Nam.
Khi câu chuyện được phát giác thì người ta mới biết là hòn đá này được đưa vào Đền Hùng từ năm 2009, thời ông Nguyễn Tiến Khôi, giám đốc khu di tích lịch sử Đền Hùng. Qua trả lời phỏng vấn của ông Khôi với báo chí trong nước, thì vào đầu năm 2009, ( ban quản lý ) Đền Hùng tiến hành tu sửa và trong khi đào đất móng nhà thì thấy có một viên gạch, mà trên đó có những văn tự nói về việc « xóa sổ » Đền Hùng. Ông ấy cho rằng đó là những bùa của giặc Nguyên Mông khi sang xâm lược ViệtNam đã yểm vào đó.
Sự việc đã được báo cáo lên cấp tỉnh, mà ở đây chính là bí thư tỉnh uỷ Nguyễn Hữu Điền. Ông Điền cũng chính là người đã đi tìm long mạch để xây Đền Âu Cơ. Sự việc sau đó được báo cáo lên Bộ Văn hóa. Bộ Văn hóa đã môi giới để tìm đến một đại tá quân đội, tên là Nguyễn Minh Thông, một người có nghiên cứu về huyền thuật phương Đông. Chính ông Thông là người chủ trì việc đưa ra một cái bùa để trấn trị bùa mà phương Bắc đã yểm vào Đền Hùng.
Lúc chúng tôi có được bức ảnh chụp 2 mặt của viên đá đó, thì chúng tôi chỉ nghĩ đây là một cái bùa lành, tức là bùa để cầu phúc, giải tai họa thôi, chứ chưa nghĩ đây là một bùa trấn yểm. Nhưng tự ông Khôi đã tiết lộ rằng đây là bùa trấn yểm lại bùa của phương Bắc. Câu chuyện ngày càng lớn và không chỉ liên quan đến di tích Đền Hùng, mà còn liên quan đến UBND tỉnh và tỉnh uỷ Phú Thọ, cũng như đến Bộ Thể thao,Văn hóa và Du lịch Việt Nam.
RFI : Thưa ông, xét về thủ tục, thẩm quyền, thì họ có quyền đặt những tảng đá như vậy ở một di tích linh thiêng như Đền Hùng ?
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện : Tín ngưỡng thờ đá, thờ cây là tín ngưỡng nguyên thủy và đã có ở khắp nơi trên thế giới, kể cả ở Việt Nam. Tại khu vực Đền Hùng, gốc xa xưa của nó cũng là những tín ngưỡng nguyên thủy thờ thần núi và thờ đá. Nhưng trong các huyền tích dày đặt chung quanh tỉnh Phú Thọ và khu vực lân cận, thì chúng ta không thấy một hòn đá nào mang dáng nét như vậy và đây là hiện vật được bịa đặt về sau.
Khi tìm hiểu về tảng đá này thì chúng tôi thấy trên đó có cả dấu ấn « Tổ Vương Tích Phúc », là một cái ấn bịa đặt của tỉnh Phú Thọ, có cả những dòng chữ Phạn, rồi dòng chữ Hán « Bách Giải Tiêu Tai Phù », rồi cả trận đồ theo kiểu Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Đó là một cái bùa hỗn loạn về mặt tâm linh, một hiện vật bịa đặt về sau, hoàn toàn mới, không có trong hồ sơ di tích Đền Hùng.
Bất cứ người nào quản lý văn hóa, kể cả quản lý hành chính, như ở UBND tỉnh, đều phải hiểu là đưa vào một di tích thuần Việt như Đền Hùng là một điều dứt khoát không được phép.
RFI : Ông có thể hiểu được động cơ của những người làm như vậy không ? Phải chăng đó là nhằm thỏa mãn nhu cầu mê tín của khá nhiều quan chức hiện nay, hay đây là cách để kiếm tiền ?
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện : Tôi chưa nghĩ việc đặt đá bùa ở đó là nhằm mục đích kiếm lợi, nhưng ở đây có một điều đáng báo động về não trạng của những nhà quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay : cái gì cũng muốn thổi phồng lên, cái gì cũng làm cho sai lạc đi, làm cho nó hoành tráng lên, làm cho nó đi xa với truyền thống. Không chỉ Đền Hùng, mà nhiều nơi khác cũng như thế, ví dụ như Đền Trần ở Nam Định, Đền Trần ở Thái Bình và một loạt các nơi khác. Có những nơi họ bịa ra những câu chuyện, những sự tích mới, đặt ra những vật linh, hiện vật không hề có trong sử sách, hoặc là nhằm mục đích thỏa mãn một nhu cầu về tâm linh cho riêng cá nhân, gia đình hoặc dòng họ mình, hoặc có nơi bịa đặt ra những thứ đó để cầu lợi, kiếm tiền.
Chúng tôi cũng phát hiện là ở Đền Hùng, trên các tờ phiếu ghi công đức do bản quản lý phát, có ghi một cái ấn và trên ấn đó có hàng chữ Tổ Vương Tứ Phúc. Những chữ này viết không đúng, đã thế họ lại phiên âm ra là Vua Hùng ban phúc, mà ghi bên dưới đây là dấu ấn thời Hồng Đức truy phong cho vua Hùng ! Một việc làm bậy bạ hết sức, một sự bịa đặt nhạo báng tổ tiên, nhạo báng vua Hùng, lường gạt nhân dân, lợi dụng tín ngưỡng vua Hùng kiếm chác. Tôi cho rằng đó là một việc làm phi đạo đức và rất là đáng trách, nhất là lại được thực hiện bởi một cơ quan văn hóa. Ban quản lý khu di tích Đền Hùng được xem như là một ông thủ từ của một ngôi Đền quốc tổ mà lại làm một cái việc bậy bạ như thế, rất đáng lên án. Nếu được quyền, người dân địa phương sẽ truất quyền thủ từ Đền Hùng của ban quản lý đó.
RFI : Theo ông, để tránh những trường hợp như vậy, việc quản lý những di tích lịch sử có tính chất thờ tự như Đền Hùng nên được giao cho cơ quan nào?
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện : Từ ngàn xưa, những ngôi đền có tính chất thờ phượng những nhân vậtanh hùng dân tộc được gọi là những ngôi đền quốc tế. Quốc tế đây có nghĩa là những nơi tế lễ cấp Nhà nước, tức là nơi mà đại diện của Nhà nước phải đến đó để tế lễ hàng năm. Dân ở đó bao giờ cũng là những người giữa các việc thờ cúng đó và theo truyền thống, được Nhà nước đặt riêng ra, gọi là dân tạo lệ, tức là dân ở xã đó hay vùng đó được miễn hoàn toàn việc phu phen tạp dịch hoặc miễn mọt số thuế khóa để tập trung vào việc chăm lo ruộng đất ở đó để lấy hoa lợi chi dùng vào việc tế lễ hàng năm. Tế lễ bằng vật phẩm gì, nghi thức như thế nào đều được quy định một cách rất chặt chẽ.
Còn hiện giờ, những di tích như thế giao cho địa phương là hợp lý và đúng với truyền thống nhất, tức là mô hình như hiện nay là đúng rồi. Nhưng ban quản lý các di tích đó trước hết phải là những người hiểu biết về lịch sử văn hóa và phải là những người có tấm lòng rất thành kính và một cái tâm thuần khiết thì mới có thể duy trì các lễ hội hoặc là các cuộc cúng tế hàng năm được đúng quy củ. Phải có một tấm lòng như thế nào thì mới có đủ bản lĩnh để từ chối những cám dỗ về vật chất do sự nổi tiếng của những ngôi đền mà họ quản lý đưa.
Ví dụ như tỉnh Nam Định, phường Lộc Vượng không có cái tâm như thế, cho nên không thể từ chối những món lợi béo bở từ việc phát ấn Đền Trần. Dẫu họ biết làm thế là sai, là lừa gạt nhân dân, nhưng họ vẫn cứ làm. Thế thì, đòi hỏi những người quản lý có được cái tâm, có tấm lòng, có sự hiểu biết về các di tích như thế là một việc tương đối khó, nhưng không phải là không có những người như thế, nhất là đối với những di tích quan trọng cấp quốc gia, được nhiều người đến thăm viếng như Đền Hùng.
 RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện.

















Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 10


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                           QUẺ SỐ  10 -  HẠ HẠ

TRIỆU :                       Thục đạo kỳ khu.

Dịch :                            Đường đi về đất Thục gập ghềnh, quanh co.

TỔNG THI :                Thiềm cung vô địa thực tiên đào,
                                      Yên thụ thiền thanh hoán bá lao,
                                      Thiên nhược đa tình khan thử hội,
                                      Hảo tương thiện niệm luyện cương đao.

Dịch :                            Cung trăng không đất cấy tiên đào,
                                      Rừng biếc ve ngâm giục cú kêu,
                                      Ví thử gian lao trời có thấu,
                                      Nguyện rèn niềm thiện dắn bằng dao.

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Hoàng hoàng như dã.
          Ý nói : Thân thế và gia trạch hoang mang, không được yên vui.

2. CẦU TÀI CẦU QUAN             : Phong nhập phá ốc.
          Ý nói : Việc cầu quan cầu tài chưa tới thời vận, nên không đi đến đâu, khác nào như gió vào nhà trống.

3. HÔN NHÂN                               : Duyên mộc cầu ngư (leo cây tìm cá).
          Ý nói : Việc hôn nhân khó thành.

4. LỤC GIÁP                                 : Phụ dựng bất dục.
          Ý nói : Có đẻ mà không nuôi được.


5. PHONG THỦY                         : An năng cửu cư.
          Ý nói : Mộ để phải chỗ đất xấu, nên tìm chỗ khác dời đi.

6. QUAN TỤNG                            : Nhân nhi vô lễ (người mà không biết lễ).
          Ý nói : Tránh kẻ tiểu nhân mới mong thoát việc kiện tụng.

7. TẬT BỆNH                                : Trương Lương đa bệnh.
          Ý nói : Đau ốm triền miên.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Mạc úy ngã tâm (chẳng thỏa tấm lòng).
          Ý nói : Của mất không tìm thấy; người đi xa không về.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Hà đông đi túc (Hà đông dời thóc).
          Ý nói : Mất hết mùa màng, chăn nuôi rất kém.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :
         
          Quẻ này ứng triệu “đường Thục gặp ghềnh” nên mọi việc đều trắc trở khó khăn chẳng được hanh thông khác nào như trên cung trăng không có đất để trồng đào tiên, mà nơi rừng thu sương khói mịt mờ này chỉ nghe văng vẳng có tiếng ve than cùng tiếng cú rúc thật là buồn tai. Để thoát khỏi cảnh đó chỉ còn cách trở về tu thân tích đức bằng một ý chí cứng rắn, thì may qua tuần tháng 7, 8, 9 có chuyển biến thời vận mới.

LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO QUẺ SỐ 9


LINH XĂM ĐỨC THÁNH TRẦN-HƯNG-ĐẠO

                           QUẺ SỐ  9  -  HẠ HẠ

TRIỆU :                       Khô mộc vô chi.

Dịch :                            Cây khô không cành.

TỔNG THI :                Vạn sự gian quan bất đẳng nhàn,
                                      Nhất tầng san thướng nhất tầng san !
                                      Tiêu-liêu vô lộ qui lâm tẩu,
                                      Dao vọng xuân ôn cánh ngộ hàn.

Dịch :                            Muôn việc gian nan há rảnh nào,
                                      Một tầng non tiếp một tầng cao,
                                      Chim bay cách lối khôn về tổ,
                                      Cầu ấm chưa sang, lạnh đã vào !

CHÚ GIẢI :

1. TỰ THÂN GIA TRẠCH : Bất hoàng an tức.
          Ý nói : Thân thế và gia đình hoang mang chẳng được yên hàn vui vẻ.

2. CẦU QUAN CẦU TÀI             : Tương ngộ chi sơ (Gặp gỡ sơ tình).
          Ý nói : Cầu quan cầu tài không có quý nhân giúp sức nên chẳng gặp may mắn gì.

3. HÔN NHÂN                               : Gia nhân cao cao.
          Ý nói : Việc hôn nhân vấp phải mọi người trong gia đình bàn ra tán vào có thể lỡ việc.

4. LỤC GIÁP                                 : Dư nhật vọng chi.
          Ý nói : Mong ngày đêm vì đường con cái vẫn còn hiếm hoi.

5. PHONG THỦY                         : Dĩ vi băng sơn,
          Ý nói : Mộ để phải chỗ đất lỡ, hoặc là chỗ núi bị phá lấy đất đá, nên dời đi nơi khác.

6. QUAN TỤNG                            : Bất bình tắt minh.
          Ý nói : Có sự bất bình phải nhờ cửa công phân xử, không thể tránh được.

7. TẬT BỆNH                                : Thần bất phụ thể.
          Ý nói : Bệnh trọng người ốm mê sảng khó thoát, cần giữ cho tinh thần yên tỉnh, bớt lo nghĩ và ăn năn tội lỗi may ra mới qua khỏi.

8. HÀNH NHÂN THẤT VẬT      : Bất kiến kỳ thê.
          Ý nói : Người đi xa không có tin tức, của mất chẳng tìm lại được.

9. LỤC SÚC ĐIỀN TẦM              : Thập thất cửu không (mười nhà chín trống) .
          Ý nói : Việc chăn nuôi thua thiệt, việc làm ruộng mất mùa, kho tang rỗng tuếch.

TỔNG ĐOÁN THỜI VẬN :
         
          Quẻ này ứng triệu “Cây khô trụi cành” nên mọi việc mưu vọng đã khó khăn lại khó khăn them, khác nào như leo núi, leo hết tầng này lại đến tầng khác, thật là gian nan vất vả mà rốt cuộc chưa leo tới đỉnh. Lại như con chim lạc đường về rừng, nẻo xa hy vọng mùa xuân ấm áp tới, nhưng ngờ đâu mùa rét đã sát đến chân. Ai xin được quẻ xăm này, nên an thân thủ cựu, không nên cựa quậy, chỉ nhọc công phu mà thôi.

          Thời vận phải đợi đến ngày Đông-chí, có khí dương chớm dậy, cây cối được dịp nẩy mầm, thì mới có thể chuyển sang thời vận mới.